Vì sao nông sản giá thấp và hay rớt giá?
Sản lượng nông sản trên thế giới tăng đã làm cho mức cung vượt cầu
Trước kia thị trường nông sản Việt Nam rất bình ổn. Tuy nhiên thời gian gần đây nông sản Việt Nam khó cạnh tranh với nông sản các nước khác cả về chất lượng cũng như uy tín.
Nền nông nghiệp chưa được công nghiệp hóa
Nông nghiệp Việt Nam hiện không áp dụng các công nghệ tiên tiến như trên thế giới cho trồng trọt, chế biến và sản xuất nông sản.
“Chi phí sản xuất vẫn còn cao“. Tức là nền nông nghiệp vẫn còn phụ thuộc nhiều vào nông dân với qui mô hoạt động nhỏ.
Mặc dù các cấp, các ngành có rất nhiều đề án, hội thảo về vấn đề này, nhưng thực sự chưa có giải pháp hiệu quả. Đây là một bài toán cần có lời giải.
Vì để giải bài toán này thì đòi hỏi nền nông nghiệp Việt Nam phải thực hiện liên hoàn các quá trình gồm nhiều khâu, đó là từ khâu chọn giống, sản xuất, tiêu thụ, đến khâu chế biến. Các khâu có tác động hỗ trợ với nhau mà mục đích cuối cùng là làm tăng giá trị gia tăng, chứ không chỉ đơn thuần chỉ quan tâm trên thị trường đầu ra. Bởi thị trường đầu ra là kết quả cuối cùng của tổng hợp tất cả các yếu tố. Trong khi đó Việt Nam chưa tìm được thị trường đầu ra
Chất lượng hàng hóa ở nước ta chưa được đảm bảo
Hiện nay, nước ta chỉ mới đáp ứng được thị trường “dễ tính”, còn thị trường chất lượng cao thì chưa thực hiện được. Hiện nay, nhiều nông dân làm theo phong trào, không kí kết hợp đồng với doanh nghiệp, không kết hợp với Nhà nước. Mặt khác, từ khâu chọn giống, sản xuất, chế biến, bảo quản đến khâu tiêu thụ thì chưa được làm một cách đồng bộ. Chính vì vậy mà giá cả và chất lượng nông sản không có tính cạnh tranh trong thị trường khu vực và trên thế giới. Do đó, nông sản nước ta đang gặp thách thức lớn.
Chưa có thương hiệu, xuất khẩu dưới dạng thô
Hiện nay, ngành nông nghiệp Việt Nam có 10 sản phẩm nông, lâm, thủy sản xuất khẩu chính, trong đó có 8 sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (cà phê, cao su, gạo, thủy sản, điều, hồ tiêu, rau quả, gỗ và sản phẩm gỗ) và có mặt ở hầu hết các thị trường nhập khẩu lớn của thế giới như Mỹ, EU và Nhật Bản…
Có đến 90% nông sản của Việt Nam vẫn xuất khẩu dưới dạng thô, kim ngạch còn thấp do giá xuất khẩu thấp hơn các sản phẩm cùng loại của nhiều nước khác. Bên cạnh đó, đến nay mới chỉ có một số sản phẩm nông sản Việt có tên gọi xuất xứ, chỉ dẫn địa lý thương hiệu như: ở cấp quốc gia hiện có CheViet, Gạo Việt Nam; ở cấp địa phương và doanh nghiệp, đối với trái cây có vải thiều Thanh Hà (Hải Dương), vải thiều Lục Ngạn (Bắc Giang), chôm chôm Chợ Lách, bưởi da xanh (Bến Tre), xoài cát Hòa Lộc, xoài Cát Chu (Đồng Tháp), quýt đường (Trà Vinh)…; đối với gạo có gạo tám xoan Hải Hậu (Nam Định), gạo Điện Biên (Điện Biên), gạo nàng thơm chợ Đào (nhãn hiệu tập thể, Long An)…; đối với cà phê có cà phê Buôn Ma Thuột; đối với hồ tiêu có hồ tiêu Chư Sê, hồ tiêu Phú Quốc, hồ tiêu Lộc Ninh, hồ tiêu Quảng Trị; đối với hạt điều có hạt điều Bình Phước…
Còn lại, hầu hết nông sản Việt chưa xây dựng được thương hiệu, chưa có logo, nhãn mác, thậm chí, nhiều sản phẩm được bán ra thị trường thế giới thông qua các thương hiệu nước ngoài. Tương tự, ở trong nước, cũng có khoảng 80% sản phẩm nông sản được tiêu thụ mà không có nhãn hiệu. Đây là bất lợi lớn, khiến sức cạnh tranh của các loại nông sản Việt trên thị trường cả trong và ngoài nước còn yếu và chịu nhiều thiệt thòi.
Việc cơ cấu ngành nông nghiệp còn chậm, sản xuất nông nghiệp tại nhiều địa phương trên địa bàn còn manh mún, nhỏ lẻ.
Chưa có nhiều sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, có thế mạnh, sản lượng lớn, có thương hiệu để giới thiệu, quảng bá và cạnh tranh trên thị trường; công tác dồn thửa đổi ruộng còn nhiều khó khăn; thu hút doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp hạn chế
Giải pháp hay giải cứu?
Việc dùng từ giải cứu hay cách giải cứu như hiện nay cũng gây hiệu ứng ngược, làm giảm giá thành, giá trị hàng hóa nông sản, khiến nhiều nơi bà con lại bị ép giá lại.
Câu chuyện giải cứu nông sản lại nóng lên, khi tỉnh Bắc Giang hiện đang vào mùa thu hoạch vải đã bị bùng phát dịch COVID-19. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trong tiêu thụ vải, nhưng tỉnh Bắc Giang đã có công văn đề nghị các cơ quan báo chí không dùng từ “giải cứu” trong các tin, bài, phóng sự… khi tuyên truyền về việc tiêu thụ nông sản nói chung và vải thiều nói riêng
Người nông dân làm ra hàng hóa nông sản, từ củ hành, củ khoai đến quả vải chỉ mong muốn bán được sản phẩm, chứ không mong được xã hội mua bán theo kiểu làm từ thiện, thương cảm, bản thân nông dân khi nói được giải cứu cũng dễ tổn thương thêm. Vì thế, đã đến lúc chúng ta cần thay đổi cách tiếp cận khác.
Mặt khác, việc tổ chức mua bán nông sản tại các điểm giải cứu tự phát ở vỉa hè cũng xuất hiện nhiều bất cập như có một số người lợi dụng các điểm giải cứu để đưa hàng hóa không đảm bảo chất lượng, nguồn gốc xuất xứ vào để tiêu thụ.
Kết nối, hỗ trợ bà con nông dân tiêu thụ sản phẩm
Mô hình kết nối cung- cầu này sẽ chính quy, chuyên nghiệp hơn để vừa cung cấp sản phẩm tốt, đảm bảo chất lượng, nguồn gốc xuất xứ cho người tiêu dùng, vừa nâng niu giá trị nông sản Việt. Quyết tâm không để tình trạng thu hoạch xong mới tìm bán mà ngay từ đầu vụ các địa phương đã cung cấp về kế hoạch sản xuất, dự kiến sản lượng
Bằng cách xây dựng mô hình kết nối cung cầu chính quy, nông sản được nâng niu về giá trị, người tiêu dùng thấy đây không phải là một sản phẩm giải cứu để từ đó có thái độ, trách nhiệm sử dụng hiệu quả hơn. Nói cách khác, người tiêu dùng không phải trên cương vị người bỏ tiền ra mua nông sản giúp bà con mà là mua vì sức khỏe, quyền lợi của chính mình vì được sử dụng sản phẩm có chất lượng.
Nên có một bộ phậm chủ động cung cấp thông tin, cơ sở dữ liệu đầu cung với quy mô sản lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào, đảm bảo truy xuất nguồn gốc, chứng nhận tiêu chuẩn an toàn để các trung tâm bán lẻ, tập đoàn phân phối lớn kết nối được dữ liệu đầu cung, từ đó có kế hoạch tiêu thụ chủ động hơn.
Một nền nông nghiệp minh bạch, trách nhiệm, dùng chuyển đổi số
Để minh bạch các dữ liệu đầu cung chuyển sang cho đầu cầu, kết nối cung – cầu về sản lượng, yêu cầu thị trường. Vì chỉ khi kết nối được cung – cầu, minh bạch, chuẩn hóa về chất lượng thông qua chứng nhận của cơ quan chức năng thì xã hội sẽ vào cuộc, kích hoạt thị trường phân phối.
Nếu làm tốt việc phát triển thị trường trong nước thì hình ảnh nông sản Việt Nam ở nước ngoài cũng được nâng cao, sản phẩm đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm để phục vụ ngay trong nước chứ không chỉ làm sạch để bán ra nước ngoài.
“Khi người tiêu dùng còn dễ dãi với những sản phẩm giải cứu thì người sản xuất cũng sẽ sản xuất dễ dãi, chỉ khi có quy chuẩn và được minh bạch, nền nông nghiệp mới vận hành theo đúng quy luật của cung – cầu. Dù đây là việc cần có quá trình nhưng với sự tham gia của các ngành chức năng, các tổ chức đoàn thể, tôi tin, điều đó sẽ sớm thành hiện thực”
Ngành nông nghiệp phải được công nghệ hóa bằng cách sản xuất và chế biến phải có phải quy hoạch, đưa ngành nông nghiệp vào phát triển mới với công nghệ tiên tiến của thế giới. Nông sản nước ta cần quan tâm hơn đến chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường thế giới mang tính cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, giá cả và cách phục vụ khách hàng trên thế giới. Ngoài ra, cần phải kết hợp 4 nhà: nhà nông, nhà nước, nhà doanh nghiệp và nhà khoa học, đó mới là điều quan trọng.
Không chỉ thay đổi tư duy, cách nghĩ, cách làm trong sản xuất sản phẩm nông nghiệp – đến từ các nhà
Nhà nước: Cần đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về hội nhập và các FTA thế hệ mới, đặc biệt là các hàng rào kỹ thuật để từ đó doanh nghiệp nhận biết, nắm bắt cơ hội và thách thức song song với việc tiếp tục nghiên cứu đánh giá dự báo tác động của các FTA để cung cấp căn cứ cho quá trình đàm phán, phân tích những rủi ro, ảnh hưởng đối với ngành Nông nghiệp khi tham gia các FTA. Cải cách thể chế, bộ máy quản lý nhà nước và tăng cường năng lực hội nhập của bộ máy quản lý nhà nước, điều chỉnh cơ chế chính sách liên quan đến thương mại nông sản Việt Nam đáp ứng đúng yêu cầu trong các FTA.
Doanh nghiệp: nâng cao năng lực cạnh tranh nông sản Việt trong chuỗi cung ứng toàn cầu, cần đánh giá cụ thể sức cạnh tranh của từng loại nông sản chủ yếu để có biện pháp khắc phục những yếu kém, bảo đảm nông sản của nước ta chiếm lĩnh thị trường trong nước và vươn mạnh ra thị trường quốc tế.
Nhà khoa học: tổ chức lại mô hình sản xuất nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, có tỷ suất hàng hóa cao gắn với nhu cầu thị trường khu vực và thế giới, gắn chặt sản xuất với thị trường, trên cơ sở phát huy tối đa các lợi thế so sánh vùng, ngành hàng để tạo sức mạnh cung cấp cho thị trường những lô hàng nông sản lớn.
Nông dân: tăng giá trị cây trồng – Phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ. Đất trồng rau được xử lý bằng phân vi sinh, kết hợp với phân chuồng, lại được bọc bằng nilon, cộng với quá trình canh tác sinh học. Nông dân cam kết không sử dụng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu, chất khích thích, không sử dụng chất bảo quản khi thu hoạch rau. Hiện các mô hình sản xuất theo hướng hữu cơ mang lại thu nhập tăng từ 10-30% cho người nông dân so với phương pháp sản xuất thông thường.
Tìm hiểu thêm về Ngọc Mai
Gạo Ngọc Mai chuyên sản xuất và cung ứng gạo đạt tiêu chuẩn chất lượng, đem đến nguồn gạo thuần chủng, chất lượng cho các đơn vị từ thiện, sản xuất, doanh nghiệp, xuất khẩu. Với chất lượng gạo được cam kết, Ngọc Mai là nguồn cung cấp đáng tin cậy cho các đối tác trong và ngoài nước. Cam kết không trộn gạo, khồng cung cấp hàng nhái cho khách hàng. Hiện nay, CÔNG TY TNHH MTV NGỌC MAI – GẠO NẾP LONG AN đã và đang cung cấp các loại gạo chất lượng cao trong đó có gạo nếp và lứt đỏ đen, vì thế nếu như các bạn đang mong muốn được tận hưởng những bữa ăn ngon mà còn tốt cho sức khoẻ thì đừng chần chừ mà hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được tư vấn khi mua hàng nhé!
CÔNG TY TNHH MTV NGỌC MAI – GẠO NẾP LONG AN
- Địa chỉ: 46 Nguyễn Văn Cương, phường Tân Khánh, TP. Tân An, tỉnh Long An.
- Email: lucyle101197@gmail.com.vn – congtytnhhmtvngocmai@vnn.vn
- Hotline: (+84) 707366420
- Youtube: Nhà máy xay xát lúa gạo Ngọc Mai
- Facebook: Ngọc Mai – Nhà máy xay xát lúa gạo Ngọc Mai
- Instagram: @Vn_fragrant_rice